(TT&VH) - Đêm 29/1/2010, tại phòng hòa nhạc Nhạc viện TP.HCM sẽ diễn ra chương trình hòa nhạc Mừng Xuân mới hướng đến Đại lễ 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội. Đặc biệt đêm nhạc này chỉ trình diễn những tác phẩm khí nhạc của các cựu giám đốc Nhạc viện TP.HCM, trong đó có 2 tác phẩm của GS Quang Hải là Fantasia số 1 cho piano và Concerto số 2 cho đàn tranh và dàn nhạc giao hưởng mang tên Đất và hoa - đây là một trong rất nhiều concerto mà GS Quang Hải đã viết cho các nhạc cụ dân tộc Việt Nam.
Người VN thứ hai lấy bằng tiến sĩ nghệ thuật ở nước ngoài
GS-TS-NSND Quang Hải tên thật là Huỳnh Tấn Sĩ, sinh năm 1935 tại xã Tân Hội, huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang. Cùng với NSND Trọng Bằng và NSND Trần Quý, ông là một trong ba vị chỉ huy dàn nhạc đầu tiên của Việt Nam được đào tạo ở nước ngoài.
GS Quang Hải tốt nghiệp nghiên cứu sinh chỉ huy dàn nhạc và học vị Tiến sĩ lý luận âm nhạc tại Nhạc viện Leningrad (Saint Petersburg) năm 1968. Ông từng giữ chức Giám đốc Nhà hát Giao hưởng Hợp xướng Nhạc vũ kịch Việt Nam (1970-1975), Giám đốc Nhạc viện TP.HCM (1975-1998). Ông được xem là người Việt Nam thứ hai lấy được học vị tiến sĩ nghệ thuật ở nước ngoài (người đầu tiên là GS-TS Trần Văn Khê). Ông đã có hàng trăm buổi biểu diễn chỉ huy trong và ngoài nước, từng vinh dự được chỉ huy Dàn nhạc Giao hưởng Công huân nước Nga.
Ông là người đã có nhiều đóng góp cho sự nghiệp đào tạo âm nhạc, là người khởi xướng và tổ chức đào tạo tiến sĩ âm nhạc đầu tiên tại Việt Nam. Tuy là “dân” chỉ huy và phần lớn thời gian làm công tác quản lý, nhưng ông vẫn dành thời gian để sáng tác nhiều tác phẩm, đặc biệt là những tác phẩm khí nhạc kết hợp nhạc cụ dân tộc với dàn nhạc giao hưởng.
Gia tài tác phẩm của ông gồm 3 tổ khúc giao hưởng, 2 concerto cho đàn tranh và dàn nhạc giao hưởng, 2 concerto cho piano và dàn nhạc, các concerto cho đàn kìm, đàn t’rưng, sáo trúc và dàn nhạc giao hưởng, biến tấu viết cho đàn nguyệt, đàn t’rưng và dàn nhạc giao hưởng; Giao hưởng - đại hợp xướng Chuỗi ngọc biển Đông; Giao hưởng - thanh xướng kịch Ký ức Hồ Chí Minh... và âm nhạc cho hàng chục vở kịch nói, cải lương, phim và múa.
Tuy nhiên, xuyên suốt trong các tác phẩm của ông là âm điệu dân tộc và việc thể nghiệm về sự “đối thoại” của các nhạc cụ dân tộc với dàn nhạc giao hưởng, nâng khả năng biểu hiện của nhạc cụ dân tộc lên một tầm cao mới.
Ngoài việc phát triển từ những chủ đề dân ca hoặc điệu thức thang âm Việt Nam, trong nhiều tác phẩm của GS Quang Hải, ông đã xây dựng chủ đề bằng cách “nhạc hóa” thanh điệu tiếng Việt từ tựa đề của những tác phẩm, vì vậy những giai điệu không mang chất dân gian nhưng nghe rất Việt Nam - gần gũi, dễ cảm, dễ đi vào lòng người.
Kỷ lục về tác phẩm cho nhạc cụ dân tộc và dàn nhạc giao hưởng
Hiện nay GS Quang Hải được xem là người đã sáng tác nhiều concerto nhất Việt Nam (7 tác phẩm). Riêng về tác phẩm viết cho nhạc cụ dân tộc, sách Vietbook 2007 đã ghi nhận GS Quang Hải là “Người có tác phẩm độc tấu nhạc khí dân tộc hòa với dàn nhạc giao hưởng (concerto, variation) nhiều nhất Việt Nam”.
Cho đến nay ông có tới 11 tác phẩm viết theo loại này như: Concerto số 1 cho đàn tranh Quê tôi giải phóng (1979), Concerto số 2 cho đàn tranhĐất và hoa (1994), Concerto cho đàn kìm Bình minh (1999), Concerto cho t’rưng Dốc sương mù (2003), Concerto cho sáo trúc Thanh niên làm theo lời Bác (2009), Variation cho t’rưng trên chủ đề Lý lu là (2006)...
Khi được hỏi tại sao là dân chỉ huy giao hưởng được học ở trường “Tây” mà lại viết nhiều tác phẩm cho nhạc cụ dân tộc, ông cho biết: “Tôi là người sinh ra ở Tiền Giang, một trong những cái nôi của nhạc tài tử. Cha là hương nhạc trong làng, chú ruột và anh cả là những tay đàn tài tử khá lão luyện... nên từ nhỏ đã thấm nhuần các âm điệu nhạc dân tộc. Tôi biết chơi nhiều loại nhạc cụ dân tộc trước khi biết đàn violin, piano và với vốn học của mình, tôi muốn góp phần nâng cao khả năng thể hiện của nhạc cụ dân tộc và vào việc phát triển âm nhạc giao hưởng đương đại”.
Ông cho rằng: Dân tộc chúng ta có truyền thống văn hóa lâu đời, nhạc cụ dân tộc Việt Nam đã được vun đắp qua nhiều thế hệ, chúng có rất nhiều độc đáo. Vấn đề mấu chốt để khẳng định vị trí của nó đối với thế giới là chúng ta cần có những tác phẩm. Tôi đã dùng 2 thể loại concerto và variation (biến tấu) nhằm có điều kiện so sánh nhạc cụ dân tộc với nhạc cụ phương Tây và hòa chung với dàn nhạc giao hưởng như một hình thức hội nhập với thế giới, hội nhập nhưng vẫn mang bản sắc của dân tộc Việt Nam.
Người VN thứ hai lấy bằng tiến sĩ nghệ thuật ở nước ngoài
GS Quang Hải
|
GS Quang Hải tốt nghiệp nghiên cứu sinh chỉ huy dàn nhạc và học vị Tiến sĩ lý luận âm nhạc tại Nhạc viện Leningrad (Saint Petersburg) năm 1968. Ông từng giữ chức Giám đốc Nhà hát Giao hưởng Hợp xướng Nhạc vũ kịch Việt Nam (1970-1975), Giám đốc Nhạc viện TP.HCM (1975-1998). Ông được xem là người Việt Nam thứ hai lấy được học vị tiến sĩ nghệ thuật ở nước ngoài (người đầu tiên là GS-TS Trần Văn Khê). Ông đã có hàng trăm buổi biểu diễn chỉ huy trong và ngoài nước, từng vinh dự được chỉ huy Dàn nhạc Giao hưởng Công huân nước Nga.
Ông là người đã có nhiều đóng góp cho sự nghiệp đào tạo âm nhạc, là người khởi xướng và tổ chức đào tạo tiến sĩ âm nhạc đầu tiên tại Việt Nam. Tuy là “dân” chỉ huy và phần lớn thời gian làm công tác quản lý, nhưng ông vẫn dành thời gian để sáng tác nhiều tác phẩm, đặc biệt là những tác phẩm khí nhạc kết hợp nhạc cụ dân tộc với dàn nhạc giao hưởng.
Gia tài tác phẩm của ông gồm 3 tổ khúc giao hưởng, 2 concerto cho đàn tranh và dàn nhạc giao hưởng, 2 concerto cho piano và dàn nhạc, các concerto cho đàn kìm, đàn t’rưng, sáo trúc và dàn nhạc giao hưởng, biến tấu viết cho đàn nguyệt, đàn t’rưng và dàn nhạc giao hưởng; Giao hưởng - đại hợp xướng Chuỗi ngọc biển Đông; Giao hưởng - thanh xướng kịch Ký ức Hồ Chí Minh... và âm nhạc cho hàng chục vở kịch nói, cải lương, phim và múa.
Tuy nhiên, xuyên suốt trong các tác phẩm của ông là âm điệu dân tộc và việc thể nghiệm về sự “đối thoại” của các nhạc cụ dân tộc với dàn nhạc giao hưởng, nâng khả năng biểu hiện của nhạc cụ dân tộc lên một tầm cao mới.
Ngoài việc phát triển từ những chủ đề dân ca hoặc điệu thức thang âm Việt Nam, trong nhiều tác phẩm của GS Quang Hải, ông đã xây dựng chủ đề bằng cách “nhạc hóa” thanh điệu tiếng Việt từ tựa đề của những tác phẩm, vì vậy những giai điệu không mang chất dân gian nhưng nghe rất Việt Nam - gần gũi, dễ cảm, dễ đi vào lòng người.
Kỷ lục về tác phẩm cho nhạc cụ dân tộc và dàn nhạc giao hưởng
Hiện nay GS Quang Hải được xem là người đã sáng tác nhiều concerto nhất Việt Nam (7 tác phẩm). Riêng về tác phẩm viết cho nhạc cụ dân tộc, sách Vietbook 2007 đã ghi nhận GS Quang Hải là “Người có tác phẩm độc tấu nhạc khí dân tộc hòa với dàn nhạc giao hưởng (concerto, variation) nhiều nhất Việt Nam”.
Cho đến nay ông có tới 11 tác phẩm viết theo loại này như: Concerto số 1 cho đàn tranh Quê tôi giải phóng (1979), Concerto số 2 cho đàn tranhĐất và hoa (1994), Concerto cho đàn kìm Bình minh (1999), Concerto cho t’rưng Dốc sương mù (2003), Concerto cho sáo trúc Thanh niên làm theo lời Bác (2009), Variation cho t’rưng trên chủ đề Lý lu là (2006)...
Khi được hỏi tại sao là dân chỉ huy giao hưởng được học ở trường “Tây” mà lại viết nhiều tác phẩm cho nhạc cụ dân tộc, ông cho biết: “Tôi là người sinh ra ở Tiền Giang, một trong những cái nôi của nhạc tài tử. Cha là hương nhạc trong làng, chú ruột và anh cả là những tay đàn tài tử khá lão luyện... nên từ nhỏ đã thấm nhuần các âm điệu nhạc dân tộc. Tôi biết chơi nhiều loại nhạc cụ dân tộc trước khi biết đàn violin, piano và với vốn học của mình, tôi muốn góp phần nâng cao khả năng thể hiện của nhạc cụ dân tộc và vào việc phát triển âm nhạc giao hưởng đương đại”.
Ông cho rằng: Dân tộc chúng ta có truyền thống văn hóa lâu đời, nhạc cụ dân tộc Việt Nam đã được vun đắp qua nhiều thế hệ, chúng có rất nhiều độc đáo. Vấn đề mấu chốt để khẳng định vị trí của nó đối với thế giới là chúng ta cần có những tác phẩm. Tôi đã dùng 2 thể loại concerto và variation (biến tấu) nhằm có điều kiện so sánh nhạc cụ dân tộc với nhạc cụ phương Tây và hòa chung với dàn nhạc giao hưởng như một hình thức hội nhập với thế giới, hội nhập nhưng vẫn mang bản sắc của dân tộc Việt Nam.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét